Luận văn Dịch tễ học, lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn ở trẻ em.Bệnh lý viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (VNTMNK) đã được mô tả lần đầu tiên năm 1646 bởi Riveriere. VNTMNK có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp hơn ở trẻ lớn và người lớn.
MÃ TÀI LIỆU |
LVTHSY 0263 |
Giá : |
50.000đ |
Liên Hệ |
0915.558.890 |
Trên thế giới, tỷ lệ mắc bệnh VNTMNK ước tính khoảng 3-10 ca/100.000 dân mỗi năm [1],[23],[50]. Bệnh nhân có bệnh tim bẩm sinh chiếm khoảng 77%-89% tổng số trẻ em mắc VNTMNK nói chung[36],[44]. Theo K.Niwa nghiên cứu năm 2004 ở Nhật [50] , tần suất mắc VNTMNK là 0, 42% tổng số bệnh nhân tim bẩm sinh nhập viện.
Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng của bệnh đã thay đổi rất nhiều trong 50 năm qua. Trước những năm 70, 30%-50% số trẻ mắc VNTMNK trên bệnh nhân viêm van tim do thấp[10]. Ngày nay, nhờ vào những tiến bộ về kỹ thuật (phẫu thuật tim, lọc máu…) làm gia tăng tỷ lệ sống sót cho các bệnh nhân mắc bệnh tim bẩm sinh hay mắc phải, mô hình bệnh tim mạch cũng thay đổi rất lớn với sự giảm đi đáng kể của các bệnh van tim do thấp, đồng thời với sự tăng lên về tỷ lệ của các bệnh tim bẩm sinh đã được phẫu thuật hoặc không phẫu thuật. Phần khác là do những tiến bộ mới về vi sinh, miễn dịch, và về điều trị đã làm thay đổi diễn biến cuả bệnh và cách điều trị bệnh. Đó là sự gia tăng các loại vi khuẩn ít gặp, sự gia tăng các nhiễm trùng tim phải có liên quan đến việc sử dụng thuốc đường tĩnh mạch, các kỹ thuật có liên quan đến đường vào là mạch máu như đặt catheter đường tĩnh mạch, các phẫu thuật tim mạch ngày càng phát triển cũng như sự tiến bộ về lĩnh vực miễn dịch làm tỷ lệ phát hiện bệnh tăng lên đáng kể [12]. Tuy nhiên cho đến nay, tỷ lệ mắc bệnh theo nhiều nghiên cứu không những không giảm mà còn tăng lên. Tỷ lệ biến chứng và tử vong của bệnh vẫn còn ở mức cao [10][20][26][72]. Theo Tugcu và cộng sự[72], tỷ lệ có ít nhất một biến chứng là 67,7% tổng số bệnh nhân trong nghiên cứu. Tỷ lệ tử vong theo Wang [77] là 20%. Theo Tak và cộng sự nghiên cứu VNTMNK do tụ cầu, tỷ lệ tử vong là 20% –> 40% [67].
Ở Việt nam đã có một số nghiên cứu về VNTMNK ở người lớn và trẻ em nói chung. Theo nghiên cứu của Phạm Gia Khải và cộng sự năm 1993-1994, tỷ lệ mắc VNTMNK là 1,5% lượt bệnh nhân vào viện. Năm 1985, nghiên cứu về VNTMNK cấp của Nguyễn Văn Kính năm 1985[7] chỉ ra tỷ lệ bỏ sót chẩn đoán và chẩn đoán sai trước khi tử vong là 33,3%. Theo Nguyễn Thị Như năm 2000 [8], tỷ lệ mắc VNTMNK ở trẻ em là 3% bệnh nhân tim vào điều trị nội trú tại Viện Nhi và tỷ lệ tử vong trong bệnh viện của bệnh là 17,2%.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về bệnh lý VNTMNK trên đối tượng là trẻ em. Tuy nhiên ở Việt Nam trong những năm gần đây, mặc dù có nhiều sự thay đổi trong lĩnh vực điều trị tim bẩm sinh đặc biệt là lĩnh vực phẫu thuật tim mạch, chưa có nghiên cứu nào đánh giá sự thay đổi về lâm sang và vi khuẩn học của bệnh VNTMNK ở trẻ em nói chung và trẻ mắc tim bẩm sinh nói riêng cũng như nhận xét về tần suất xuất hiện bệnh VNTMNK ở một số bệnh tim bẩm sinh thường gặp. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học, vi khuẩn của bệnh VNTMNK ở trẻ em giai đoạn 2000-09/2010.
2. Mô tả một số đặc điểm Ỉâm sàng, cận Ỉâm sàng của bệnh VNTMNK ở trẻ em.