Giá trị của thông khí không xâm nhập BiPAP trong điều trị đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại khoa Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai

Luận văn  Giá trị của thông khí không xâm nhập BiPAP trong điều trị đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại khoa Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai.Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD – Chronic Obstructive Pulmonary Disease) là một bệnh rất phổ biến và có xu hướng ngày càng tăng, đặc biệt ở các nước phát triển. Bệnh là nguyên nhân gây tử vong hàng thứ tư trên thế giới, và sẽ là thứ 3 vào năm 2020 [40]. Hiện nay trên toàn thế giới có khoảng 600 triệu người mắc bệnh [34]. Tại Mỹ có 14 triệu người mắc COPD, chiếm tỷ lệ 5% dân số, hàng năm có khoảng 700.000 người nhập viện được chẩn đoán là COPD [21]. Tại Anh, 25% bệnh nhân vào cấp cứu là bệnh lý hô hấp và quá nửa số đó là do đợt cấp COPD [44]. Ở Việt nam, COPD chiếm 25,1% số bệnh nhân nằm tại khoa hô hấp [3] và chiếm tới 32,6% nguyên nhân tử vong tại khoa Hồi sức cấp cứu [8]. Đặc trưng của bệnh là tình trạng tắc nghẽn không hồi phục đưòng dẫn khí, dẫn đến giãn và ứ khí phế nang [29].

MÃ TÀI LIỆU

LVTHSY 0079

Giá :

50.000đ

Liên Hệ

0915.558.890

Bệnh tiến triển mãn tính xen kẽ những đợt tiến triển cấp tính gây suy hô hấp ở nhiều mức độ khác nhau. Bệnh nhân suy hô hấp cấp do đợt cấp COPD có tỷ lệ tử vong từ 1/5 – 1/3 mặc dù đã được thông khí nhân tạo. Phương pháp thông khí nhân tạo không xâm nhập (TKNTKXN) đã được Meduri áp dụng từ năm 1987 trong điều trị đợt cấp COPD, và đặc biệt được quan tâm trong thập kỷ vừa qua. Do cải thiện chức năng hô hấp và khí máu, ưu thế về giảm tỷ lệ viêm phổi liên quan đến thở máy [28], tránh tai biến do đặt nội khí quản và mở khí quản [32], cai máy thuận lợi, giảm số ngày điều trị, chi phí điều trị và trên hết là giảm tỷ lệ tử vong [50], nên các phương thức thở không xâm nhập được sử dụng rất rộng rãi trên toàn thế giới, cùng với đó là sự xuất hiện của nhiều loại máy thở ngày càng phù hợp cho phương thức này. Ở Việt nam, TKNTKXN đã được áp dụng trong điều trị đợt cấp COPD từ năm 1997 và một số nghiên cứu đã được thực hiện, tuy nhiên với số lượng mẫu nhỏ và phương tiện nghiên cứu cũng khác nhau nên kết quả cũng chưa thực sự thống nhất [1],[12],[16]. TKNTKXN có thể đưa những bệnh nhân đáng phải đặt nội khí quản tới chỗ chỉ định muộn và đó chính là một trong những nguyên nhân gây tử vong muộn tại ICU và khoa hô hấp của các bệnh nhân COPD. Vậy đâu là thời điểm thích hợp nhất để kết thúc TKNTKXN cho bệnh nhân COPD? Liệu còn có những yếu tố chưa được khảo sát nào ảnh hưởng tới kết quả điều trị bệnh nhân COPD bằng thông khí nhân tạo không xâm nhập? Với mong muốn góp phần trả lời các câu hỏi trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Nhận xét giá trị của thông khí không xâm nhập BiPAP trong điều trị đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại khoa Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai “ nhằm 2 mục tiêu: 1. Đánh giá đáp ứng lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị của thông khỉ không xâm nhập BiPAP trên các bệnh nhân đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tỉnh tại khoa Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai. 2. Tim hiểu vai trò một số yếu tố tiên lượng thành công của thông khỉ không xâm nhập BiPAP trong điều trị đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD – Chronic Obstructive Pulmonary Disease) là một bệnh rất phổ biến và có xu hướng ngày càng tăng, đặc biệt ở các nước phát triển. Bệnh là nguyên nhân gây tử vong hàng thứ tư trên thế giới, và sẽ là thứ 3 vào năm 2020 [40]. Hiện nay trên toàn thế giới có khoảng 600 triệu người mắc bệnh [34]. Tại Mỹ có 14 triệu người mắc COPD, chiếm tỷ lệ 5% dân số, hàng năm có khoảng 700.000 người nhập viện được chẩn đoán là COPD [21]. Tại Anh, 25% bệnh nhân vào cấp cứu là bệnh lý hô hấp và quá nửa số đó là do đợt cấp COPD [44]. Ở Việt nam, COPD chiếm 25,1% số bệnh nhân nằm tại khoa hô hấp [3] và chiếm tới 32,6% nguyên nhân tử vong tại khoa Hồi sức cấp cứu [8].

Đặc trưng của bệnh là tình trạng tắc nghẽn không hồi phục đưòng dẫn khí, dẫn đến giãn và ứ khí phế nang [29]. Bệnh tiến triển mãn tính xen kẽ những đợt tiến triển cấp tính gây suy hô hấp ở nhiều mức độ khác nhau. Bệnh nhân suy hô hấp cấp do đợt cấp COPD có tỷ lệ tử vong từ 1/5 – 1/3 mặc dù đã được thông khí nhân tạo.

Phương pháp thông khí nhân tạo không xâm nhập (TKNTKXN) đã được Meduri áp dụng từ năm 1987 trong điều trị đợt cấp COPD, và đặc biệt được quan tâm trong thập kỷ vừa qua. Do cải thiện chức năng hô hấp và khí máu, ưu thế về giảm tỷ lệ viêm phổi liên quan đến thở máy [28], tránh tai biến do đặt nội khí quản và mở khí quản [32], cai máy thuận lợi, giảm số ngày điều trị, chi phí điều trị và trên hết là giảm tỷ lệ tử vong [50], nên các phương thức thở không xâm nhập được sử dụng rất rộng rãi trên toàn thế giới, cùng với đó là sự xuất hiện của nhiều loại máy thở ngày càng phù hợp cho phương thức này. Ở Việt nam, TKNTKXN đã được áp dụng trong điều trị đợt cấp COPD từ năm 1997 và một số nghiên cứu đã được thực hiện, tuy nhiên với số lượng mẫu nhỏ và phương tiện nghiên cứu cũng khác nhau nên kết quả cũng chưa thực sự thống nhất [1],[12],[16]. TKNTKXN có thể đưa những bệnh nhân đáng phải đặt nội khí quản tới chỗ chỉ định muộn và đó chính là một trong những nguyên nhân gây tử vong muộn tại ICU và khoa hô hấp của các bệnh nhân COPD. Vậy đâu là thời điểm thích hợp nhất để kết thúc TKNTKXN cho bệnh nhân COPD? Liệu còn có những yếu tố chưa được khảo sát nào ảnh hưởng tới kết quả điều trị bệnh nhân COPD bằng thông khí nhân tạo không xâm nhập?

Với mong muốn góp phần trả lời các câu hỏi trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:

Nhận xét giá trị của thông khí không xâm nhập BiPAP trong điều trị đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại khoa Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai “ nhằm 2 mục tiêu:

1.           Đánh giá đáp ứng lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị của thông khỉ không xâm nhập BiPAP trên các bệnh nhân đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tỉnh tại khoa Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai.

2.              Tim hiểu vai trò một số yếu tố tiên lượng thành công của thông khỉ không xâm nhập BiPAP trong điều trị đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tỉnh.