MÒN NGÓT RĂNG DO ACID Ở BỆNH NHÂN TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY THỰC QUẢN TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRÃI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

MÒN NGÓT RĂNG DO ACID Ở BỆNH NHÂN TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY THỰC QUẢN TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRÃI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Diễm1, Nguyễn Đức Thông1, Trần Thu Thủy2
1 Bệnh viện Nguyễn Trãi
2 Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ, mức độ trầm trọng và một số yếu tố liên quan đến mòn ngót răng do acid (MNR) ở bệnh nhân trào ngược dạ dày thực quản (TNDD-TQ) tại bệnh viện Nguyễn Trãi Tp.HCM. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên bệnh nhân từ 18-70 tuổi được chẩn đoán TNDD-TQ (GerdQ ≥6) tại bệnh viện Nguyễn Trãi từ 11/2021 đến 6/2022. Khám đánh giá MNR bằng chỉ số BEWE bởi bác sĩ Răng Hàm Mặt. Đánh giá mức độ trầm trọng của MNR dựa vào tổng điểm BEWE, gồm 4 mức độ: không mòn (BEWE≤2), nhẹ (BEWE=3-8), vừa (BEWE=9-13) và nặng (BEWE ≥14). Phân tích dữ liệu bằng phép kiểm chi bình phương, kiểm định chính xác Fisher và mô hình hồi quy logistic, với p<0,05, KTC 95%. Kết quả: Mẫu nghiên cứu gồm 169 bệnh nhân TNDD-TQ (67,5% nữ) có tuổi trung bình 56,0 ± 10,6. Ghi nhận 78,1% bệnh nhân có biểu hiện MNR, trong đó 50% mức độ nhẹ, 42% vừa và 8% nặng. MNR phân bố nhiều nhất ở các răng sau cả hai hàm, răng cối lớn thứ nhất có tỉ lệ mòn nặng nhiều nhất (14-17%), (p<0,05). Người hưu trí có nguy cơ MNR cao gấp 4,4 lần so với công chức, viên chức và nhân viên văn phòng (OR=4,4, KTC95%: 1,1-19,0). Bệnh nhân có triệu chứng khó thở bị MNR cao hơn 3 lần so với không có khó thở (OR=3,0, KTC95%: 1,2-7,8).  Kết luận: MNR là dấu chứng ngoài thực quản phổ biến trên bệnh nhân TNDD-TQ trong nghiên cứu này. Người bị TNDD-TQ cần được tư vấn khám răng, dự phòng MNR và can thiệp kịp thời, đặc biệt chú ý đến các răng sau ở cả hai hàm. 

MÃ TÀI LIỆU

TCYDH.2022.02187

Giá :

20.000đ

Liên Hệ

0978.770.836

Mòn ngót răngdoacid(MNR) là tình trạng mất chất mô răng không hoàn nguyên do acid hay chất chelat mà không phải do sâu răng. MNR khởi phát âm thầm, giai đoạn đầu không có triệu chứng  nên  thường  dễ  bị  bỏ  qua,  không  được nhận  diện  và  chẩn  đoán  nên  việc  can  thiệp  ít được thực hiện ở giai đoạn sớm. MNR thường chỉ được chú ý khi mất chất mô răng đã tiến triển đến mức gây ra các triệu chứng ảnh hưởng chức năng ăn nhai hoặc thẩm mỹ của bệnh nhân. Ở giai đoạn MNR đã tiến triển nặng,điều trị triệu chứng và phục hồi chức năng đều trở nên phức tạp và tốn kém.Bệnhtrào ngược dạ dày thực quản(TNDD-TQ)  là  tình  trạng trào ngược  mãn  tính  dịch  dạdày lên  thực  quản,  xoang  miệng  hay  phổi. TNDD-TQ hiện trởnên phổbiến trên thếgiới với tỷlệtăng dần, ước tính ảnh hướng tới 20% dân sốtoàn  thếgiới[1].  Tuy  không  đe  doạtính mạng nhưng TNDD-TQ ảnh hưởng tới chất lượng cuộc  sống (liên quan đến  sức  khoẻ)  của người bệnh. Do  dịch  dạdày  thường  có  pH <2  nên TNDD-TQ được cho là một trong các yếu tốnguy cơ  của  MNR [2].Tương ứng, MNR  được  xếp trong  nhóm  những  triệu  chứng không điển  hình của  TNDD-TQ. Khi  khám thấy có biểu hiện MNR thì bác sĩ Răng Hàm Mặt thường nghĩ đến khả năng bệnh nhân (BN) bị TNDD-TQ, đặc biệt trên những BN bị TNDD-TQ âm thầm. Các báo cáo dịch tễ học cho thấy tỷ lệ TNDD-TQ ở châu Á thấp hơn so với châu Âu và Mỹ, tuy nhiên tỷ lệ bệnh ở châu Á có xu hướng gia tăng do thay đổi lối sống và chế độ ăn[1]. Nghiên cứu MNR nói chung và MNR ở bệnh nhân TNDD-TQ tại Việt Nam còn khá ít. Liệu tình trạng MNR có là triệu chứng phổ biến ở bệnh nhân TNDD-TQ không và mức độ trầm trọng của tình trạng MNR như thế nào? Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu tại bệnh viện Nguyễn Trãi Tp.HCMnhằm  mục  đích “Xác  định  tỉ  lệ,  mức  độ  trầm trọng và một số yếu tố liên quan đến MNR do acid ở bệnh nhân TNDD-TQ”.