U TẾ BÀO MẦM TINH HOÀN TẠI TRUNG THẤT-TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ BÁO CÁO CA BỆNH
Cung Văn Công1
1 Bệnh viện Phổi trung ương
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Các u tế bào mầm chiếm khoảng 10% các u nguyên phát trong trung thất, chúng có nguồn gốc từ các tế bào gốc nguyên thủy thuộc dây sinh dục thời kỳ bào thai. Các u tế bào mầm gặp nhiều ở trung thất trước, 5% gặp ở trung thất sau; độ tuổi từ 20-40 tuổi. Phân loại mô bệnh học (MBH) U tế bào mầm bao gồm: (1) u quái lành tính và ác tính (teratoma); (2) u tế bào mầm tinh hoàn (seminoma); (3) ung thư biểu mô bào thai (embryonal carcinoma); (4) u xoang nội bì (endodermal sinus tumor); (5) ung thư biểu mô màng nuôi (choriocarcinoma) và (6) các u tế bào hỗn hợp. Hơn 80% các u tế bào mầm là lành tính trong đó chiếm phần lớn là các u quái lành tính. Phân bố bệnh ở hai giới là tương đương, tuy nhiên nam giới có xu hướng mắc các u tế bào mầm ác tính cao hơn nữ giới. Trong số u tế bào mầm ác tính hay gặp nhất là u tế bào mầm tinh hoàn (chiếm tỉ lệ khoảng 30%), sau đó là ung thư biểu mô bào thai và u quái ác tính khoảng 10% mỗi loại; U xoang nội bì và ung thư biểu mô màng nuôi cùng chiếm tỉ lệ khoảng 5%; các u tế bào mầm ác tính còn lại chiếm khoảng 40% số trường hợp là type tế bào hỗn hợp. Chúng tôi báo cáo ca u tế bào mầm tinh hoàn nguyên phát trong trung thất, được chẩn đoán xác định bằng GPB/MBH và nhuộm hoá mô miễn dịch; được điều trị bằng phẫu thuật và hoá trị, bước đầu cho kết quả tốt.
MÃ TÀI LIỆU
|
TCYDH.2022.001006 |
Giá :
|
20.000đ
|
Liên Hệ
|
0915.558.890
|
Các khối u tế bào mầm trung thất nguyên phát là hiếm gặp và một phần ba trong số đó là u tếbào mầm tinh hoàn (Seminoma). Seminomas thường thấy ở trung thất trước, cực kỳ hiếm gặp trong khoang trung thất giữa và sau. Những khối u ngoại lai này được coi là phát triển từ tiền chất tế bào mầm hệ niệu sinh dục bị mắc kẹt trong trung thất trong quá trình di chuyển và sống sót khi khu trú ngoài bộ phận sinh dục. Khoảng 90% các khối u tế bào mầm trung thất ác tính nguyên phát phát triển trong thập kỷ thứ ba của cuộc đời. Di căn xảy ra ở ít hơn một nửa số trường hợp. Trong trường hợp xuất hiện, nó thườnglan sang các nhóm hạch bạch huyết lân cận ở cổ, trung thất hoặc bụng. Di căn theo đường máu là bất thường nhưng có thể được phát hiện ở phổi, xương, gan, lá lách, tuyến giáp và não.1-6Chẩn đoán hình ảnh đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện Seminoma. X quang ngực qui ước thường thấy trung trên thất rộng. Trên phim ngực nghiêng có thể thấy hình mờ lấp đầy khoảng sáng sau ức. Chụp cắt lớp vi tính ngực thường thấy khối u đặc, gianh giới rõ, thường xâm lấn màng ngoài tim. Seminoma thể hiện trên CT ngựclà các kén dịch vị trí trung thất trước cũng đã được báo cáo. Tràn dịch màng phổi hai bên cũng thường gặp ở bệnh nhân Seminoma trung thất. Chụp PET/CT thường thấy khối Seminoma tăng chuyến hoá mạnh với SUVmax cao chứng tỏ khả năng ác tính mạnh.1-6,7,10Kiểm tra trong phòng thí nghiệm các dấu hiệu chỉ điểm u trong huyết thanh, chẳng hạn như Lactate Dehydrogenase (LDH), kháng nguyên Carcinoembryonic, alpha-fetoprotein (AFP), gonadotropin màng đệm beta-người (βhCG) có thể cho kết quả bình thường/trên ngưỡng/mức độ cao. Siêu âm ổ bụng, siêu âm tinh hoàn thường cho kết quả bình thường.2Các seminoma phát triển rất chậm, khả năng di căn hạn chế, các triệu chứng không đặc trưng và nhiều bệnh nhân thường không có triệu chứng và được phát hiện tình cờ. Seminoma trung thất được phát hiện lần đầu tiên vào cuối những năm 1950 và đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc chữa khỏi bệnh này và kéo dài sự sống cho bệnh nhân. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm đã tăng lên 87% đến 100%. U rất nhạy cảm với hóa trị và xạ trị. Do đó, hai phương cách này thường là lựa chọn hàng đầu. Can thiệp phẫu thuật cũng có thể được áp dụng trong điều trị Seminoma.